1. Thị trường quốc tế
Sản xuất phôi nhôm là nguyên liệu bauxite, tổng lượng tài nguyên bauxite trên thế giới khoảng 400-500 triệu tấn, dự trữ 10 triệu tấn của các nước Guinea, Úc, Brazil, Jamaica và Ấn Độ, bauxite nhôm ở các nước này chiếm 73% tổng trữ lượng của thế giới. Lượng nhôm được sản xuất chủ yếu ở Hoa Kỳ, Liên Xô cũ, Canada, Úc, Brazil, Na Uy và các nước khác, chiếm hơn 60% trên thế giới. Nguồn cung cấp ngoài nhôm mới, tái chế nhôm còn có tỷ lệ tái chế nhôm cao được chia thành tái chế vật liệu cũ (nguồn chính của lon nước giải khát và phế liệu ô tô), tái chế vật liệu mới (xử lý phế liệu) làm hai. Sản lượng nhôm sơ cấp toàn cầu tăng gần 3 năm gần 1 triệu tấn/năm, sản lượng năm 1998 là 22,66 triệu tấn, năm 1999 sản lượng là 23,6 triệu tấn. Mức tăng tiêu thụ nhôm toàn cầu hàng năm chỉ là 100.000 tấn; tăng trưởng sản xuất nhôm trong điều kiện tương đối thấp hơn nhiều. Mỹ là nước sản xuất và tiêu thụ nhôm lớn nhất thế giới, do trữ lượng bauxite trong nước hạn chế, hàng năm phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu thô.
2. Thị trường trong nước
Bắt đầu từ những năm 1980, việc sản xuất và tiêu thụ nhôm của Trung Quốc bắt đầu thay đổi, đặc biệt là vào những năm 1990, nhôm trong xây dựng, vận chuyển và đóng gói của ba khu vực đã dần trở thành nơi tiêu thụ nhôm chính của các quốc gia như vậy. Tính đến năm 1999, các tỉnh và thành phố của Trung Quốc ngoài Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Hải Nam và Tây Tạng không có nhà máy nhôm, 26 tỉnh còn lại có tổng quy mô 116 nhà máy luyện kim, chủ yếu ở các tỉnh dồi dào, Huệ Châu, Sơn Tây và Thanh Hải. Năng lực sản xuất từ sản lượng hàng năm 854.000 tấn năm 1990 tăng lên 2,84 triệu tấn năm 1999, từ vị trí thứ 7 thế giới tăng lên vị trí thứ 3; tiêu thụ tăng từ 83 triệu tấn năm 1990 lên 2,9 triệu tấn năm 1999, so với năm 1998 tăng trưởng 18-20%. Hiện trên thị trường đang lưu hành lớn nhất là nhãn hiệu AL99.70, chiếm gần 90% sản lượng và nhu cầu cả nước, thành phần quy định tiêu chuẩn chất lượng hóa chất P1020A tiêu chuẩn chất lượng trong loại này và các điều khoản hợp đồng nền móng cao cấp nhôm LME rất giống nhau . Như vậy, dòng chảy của thị trường trong nước vẫn còn một số ít hàng LME đăng ký.
Người ta dự đoán rằng trữ lượng bauxite năm 2000 là khoảng 3,176 tỷ tấn, trữ lượng khoảng 4,106 tỷ tấn vào năm 2010. Với việc sản xuất nhôm sơ cấp trong những năm gần đây đã tăng trưởng đáng kể hơn, dự kiến vào đầu thế kỷ 21, năng lực sản xuất nhôm sơ cấp của Trung Quốc đến 300 tấn, sản lượng có khả năng đạt 2,7 triệu tấn.
Ngành công nghiệp nhôm là ngành khai thác tài nguyên khoáng sản tự nhiên, ngành công nghiệp cơ bản tiêu thụ nhiều năng lượng, do đó, việc xác định các nguồn lực và năng lượng để xây dựng ngành công nghiệp nhôm là những điều kiện cơ bản nhất. Tài nguyên bauxite của ta thuộc một trong những nước giàu có trên thế giới, nhưng Châu Âu và Hoa Kỳ và Úc sử dụng bauxite gibbsite khác nhau, thuộc loại dispore. Ngoài ra, hầu hết quy mô nhỏ và sử dụng sản xuất nhôm Soderberg, cùng với giá năng lượng cao cao hơn nhiều so với giá quốc tế của ngành công nghiệp nhôm, chi phí sản xuất phôi nhôm do đó khoảng 10.950 nhân dân tệ / tấn, chi phí điện tạm thời chiếm khoảng 35% đến 47% chi phí alumin chiếm khoảng 28% đến 34%. Chi phí sản xuất phôi nhôm ở các nước phương Tây là khoảng 10.055 nhân dân tệ/tấn. Có thể thấy, sản xuất và tiêu thụ nhôm nguyên sinh tuy đã nhảy vọt ra thế giới nhưng so với Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản và các nước khác về chủng loại sản phẩm, giá thành, công nghệ, quản lý, bảo vệ môi trường, năng suất lao động thì khoảng cách vẫn còn lớn. . Vì vậy, bây giờ chúng ta chỉ có thể nói rằng nước ta là nước sản xuất và tiêu thụ nhôm chính, nhưng còn cách xa cường quốc công nghiệp nhôm.